Campuchia (tiếng Khmer: កម្ពុជា, đã Latinh hoá: Kampuchea, phát âm tiếng Khmer: [kam.pu.ciə]), quốc hiệu là Vương quốc Campuchia (tiếng Khmer: ព្រះរាជាណាចក្រកម្ពុជា, đã Latinh hoá: Preah Reacheanachak Kampuchea, phát âm tiếng Khmer: [prĕəh riə.ciə.naː.caʔ kam.pu.ciə]), là một quốc gia có chủ quyền ở bán đảo Đông Dương tại Đông Nam Á. Campuchia giáp với vịnh Thái Lan ở phía tây nam, Thái Lan ở phía tây bắc, Lào ở phía đông bắc và Việt Nam ở phía đông. Năm 2024, Campuchia có dân số hơn 17 triệu người. Thủ đô và thành phố lớn nhất của Campuchia là Phnôm Pênh.
Năm 802, Jayavarman II tự xưng là vua, thống nhất các hoàng tử Khmer đang tham chiến ở Chân Lạp với tên gọi "Kambuja". Jayavarman II tuyên bố độc lập khỏi Java ở vùng núi Kulen. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của Đế quốc Khmer, phát triển mạnh mẽ trong hơn 600 năm, cho phép các vị vua kế tiếp kiểm soát và gây ảnh hưởng trên phần lớn Đông Nam Á, đồng thời tích lũy quyền lực và tài sản khổng lồ. Vương quốc Ấn Độ Dương đã tạo điều kiện cho việc truyền bá Ấn Độ giáo và Phật giáo đến phần lớn Đông Nam Á và xây dựng nhiều công tình tôn giáo khắp khu vực, bao gồm hơn 1.000 ngôi đền và di tích ở Angkor. Angkor Wat là công trình nổi tiếng nhất trong số những công trình này và được công nhận là Di sản thế giới.
Vào thế kỷ 15, sau cuộc nổi dậy của Ayutthaya, nơi trước đây thuộc quyền cai trị của Đế quốc Khmer, Campuchia bước vào thời kỳ suy vong. Campuchia phải đối mặt với hai nước láng giềng ngày càng hùng mạnh là Thái Lan và nhà Nguyễn. Năm 1863, Campuchia trở thành xứ bảo hộ của Pháp, và sau đó được hợp nhất thành Liên bang Đông Dương.
Campuchia giành độc lập từ Pháp vào năm 1953. Chiến tranh Việt Nam lan sang Campuchia vào năm 1965 với việc mở rộng Đường Trường Sơn và thành lập Đường mòn Sihanouk. Điều này dẫn đến việc Hoa Kỳ ném bom Campuchia từ năm 1969 đến năm 1973. Sau cuộc đảo chính vào năm 1970, Quốc vương Sihanouk bị phế truất và Cộng hòa Khmer thân Hoa Kỳ được thành lập. Với sự ủng hộ của Sihanouk và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lực lượng Khmer Đỏ chiếm Phnôm Pênh vào năm 1975 và thành lập nhà nước Campuchia Dân chủ. Khmer Đỏ sau đó thực hiện diệt chủng Campuchia từ năm 1975 đến năm 1979, khi bị Việt Nam lật đổ trong Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia. Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn được thành lập.
Sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991, Campuchia được Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc điều hành trong một thời gian ngắn. Liên Hợp Quốc rút lui sau khi tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1993 với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu khoảng 90%. Sau xung đột năm 1997, Thủ tướng Hun Sen và Đảng Nhân dân Campuchia lên nắm quyền ở Campuchia cho đến ngày nay
Campuchia là thành viên Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Hội nghị cấp cao Đông Á, Tổ chức Thương mại Thế giới, Phong trào không liên kết và Cộng đồng Pháp ngữ. Campuchia có tình trạng nghèo đói phổ biến, tham nhũng tràn lan, thiếu tự do chính trị, chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức thấp và tỷ lệ đói nghèo cao.
Nguồn gốc tên gọi
Bài chi tiết: Tên gọi Campuchia
Tên tiếng Khmer
Tên gọi Kămpŭchéa (កម្ពុជា) trong tiếng Khmer bắt nguồn từ tên gọi Kambuja của vương quốc ra đời năm 802, do vua Jayavarman II lập sau khi hợp nhất các hoàng tử Khmer của vương quốc Chenla đang gây chiến với nhau.
Tên tiếng Việt
Tên gọi Campuchia trong tiếng Việt bắt nguồn từ tên gọi tiếng Khmer. Trước thế kỷ XX, người Việt gọi nước này là Chân Lạp (chữ Hán: 真臘), Cao Miên (高棉) hoặc Cao Man (高蠻). Một số dẫn liệu đã ghi là Cao Mên (phiên âm của từ Khmer) được dùng rộng rãi trong khẩu ngữ từ khoảng giữa thế kỉ XVII Sau khi cải cách chữ viết, người Việt ghi sai từ Cao Mên thành Cao Miên. Nhưng đây là thông tin sai lệch, hai chữ Hán 高棉 có âm Hán-Việt là Cao (高) Miên (棉), không phải Cao Mên như một số nguồn dẫn, chữ 棉 không đọc là Mên mà là Miên trong âm Hán-Việt tiêu chuẩn.
Tên gọi "Chân Lạp" được dùng để chỉ nước Campuchia thời hậu Angkor, ứng với thời các chúa Nguyễn tại Việt Nam. Nhưng thật ra Chân Lạp, tên nước và người, chỉ tồn tại từ thế kỷ VI và chấm dứt vào thế kỷ IX (802). Kế tiếp thời Chân Lạp là thời Angkor với Đế quốc Khmer kéo dài đến thế kỷ XV. "Cao Miên" là danh từ thường được dùng để chỉ các triều đại Campuchia hậu Chân Lạp cho đến ngày nay. Cao Miên có thể dùng để chỉ Đế quốc Khmer nói riêng, hoặc nước Campuchia hay người Campuchia nói chung.
Trong sử triều Nguyễn, do từ Cao Miên phạm húy tên Miên Tông của vua Thiệu Trị nên vẫn gọi tên cũ là Chân Lạp, tới năm Thiệu Trị thứ 7 mới gọi lại đúng tên Cao Miên nhưng đọc chệch đi thành Cao Man.
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử Campuchia

Angkor Wat tại Xiêm Riệp, di sản thế giới
Tiền sử
Có rất ít bằng chứng về sự có mặt của con người trong thời kỳ Pleistocen trên đất Campuchia ngày nay, bao gồm các công cụ bằng đá cuội thạch anh và đá thạch anh được tìm thấy trong các ruộng bậc thang dọc theo sông Mekong, ở các tỉnh Stung Treng và Kratié, và ở tỉnh Kampot, mặc dù niên đại của chúng là không đáng tin cậy. Một số bằng chứng khảo cổ học nhỏ cho thấy các cộng đồng săn bắn hái lượm đã sinh sống trong khu vực trong thời kỳ Holocen: địa điểm phát hiện khảo cổ cổ đại nhất ở Campuchia được coi là hang động L'aang Spean, thuộc tỉnh Battambang, thuộc thời kỳ Hoabinhian. Các cuộc khai quật ở các lớp thấp hơn của nó đã tạo ra một loạt cácbon phóng xạ có niên đại khoảng 6000 năm TCN. Các lớp trên trong cùng một địa điểm đã đưa ra bằng chứng về sự chuyển đổi sang thời kỳ đồ đá mới, chứa đựng những đồ gốm bằng đất nung có niên đại sớm nhất ở Campuchia.
Các hồ sơ khảo cổ học cho thời kỳ giữa Holocen và thời kỳ đồ sắt vẫn còn hạn chế. Một sự kiện quan trọng trong thời tiền sử của Campuchia là sự thâm nhập chậm chạp của những nông dân trồng lúa đầu tiên từ phía bắc, bắt đầu vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN. Bằng chứng thời tiền sử gây tò mò nhất ở Campuchia là các "thành đất hình tròn" khác nhau được phát hiện trong các vùng đất đỏ gần Memot và ở Tây Ninh và Bình Phước của Việt Nam vào những năm sau của thập niên 1950. Chức năng và tuổi của chúng vẫn còn đang tranh cãi, nhưng một số có thể có niên đại từ thiên niên kỷ 2 TCN. Các địa điểm tiền sử khác có niên đại hơi không chắc chắn là Samrong Sen (không xa cố đô Oudong), nơi các cuộc điều tra đầu tiên bắt đầu vào năm 1875, và Phum Snay, ở tỉnh phía bắc Banteay Meanchey. Một cuộc khai quật tại Phum Snay cho thấy 21 ngôi mộ có vũ khí bằng sắt và chấn thương sọ não, có thể chỉ ra những xung đột trong quá khứ, có thể xảy ra với các thành phố lớn hơn ở Angkor. Các đồ tạo tác thời tiền sử thường được tìm thấy trong các hoạt động khai thác ở Ratanakiri.

Phnôm Pênh
Sắt được tạo ra vào khoảng 500 năm TCN, với bằng chứng hỗ trợ đến từ Cao nguyên Khorat, ở Thái Lan ngày nay. Ở Campuchia, một số khu định cư thời kỳ đồ sắt đã được tìm thấy bên dưới Baksei Chamkrong và các ngôi đền Angkorian khác trong khi các công trình đất hình tròn được tìm thấy bên dưới Lovea cách Angkor vài km về phía tây bắc. Burials, phong phú hơn nhiều so với các loại tìm thấy khác, minh chứng cho việc cải thiện tình trạng sẵn có và thương mại lương thực (ngay cả trên những khoảng cách xa: vào thế kỷ thứ 4 TCN, các mối quan hệ thương mại với Ấn Độ đã được mở ra) và sự tồn tại của một cấu trúc xã hội và tổ chức lao động.
Trong số các đồ khảo cổ từ thời kỳ đồ sắt, hạt thủy tinh là bằng chứng quan trọng. Các loại hạt thủy tinh khác nhau được thu hồi từ một số địa điểm trên khắp Campuchia, chẳng hạn như địa điểm Phum Snay ở phía tây bắc và địa điểm Prohear ở phía đông nam, cho thấy có hai mạng lưới giao dịch chính vào thời điểm đó. Hai mạng lưới được phân tách theo thời gian và không gian, điều này cho thấy đã có sự chuyển dịch từ mạng lưới này sang mạng lưới kia vào khoảng thế kỷ thứ 2 - 4 sau Công nguyên, có thể là do những thay đổi về quyền lực chính trị - xã hội.
Thời kỳ tiền Angkor và Angkor
Trong các thế kỷ 3, 4 và 5, các quốc gia Ấn Độ Dương của Phù Nam và người kế vị của nó, Chân Lạp, đã hợp nhất ở Campuchia ngày nay và tây nam Việt Nam. Trong hơn 2.000 năm, Campuchia đã hấp thụ ảnh hưởng từ Ấn Độ, truyền sang các nền văn minh Đông Nam Á khác mà ngày nay là Thái Lan và Lào. Người ta còn biết rất ít về một số chính thể này, tuy nhiên các biên niên sử và hồ sơ triều cống của Trung Quốc có đề cập đến chúng. Người ta tin rằng lãnh thổ Phù Nam có thể đã nắm giữ cảng mà nhà địa lý học người Alexandria Claudius Ptolemy gọi là " Kattigara ". Các biên niên sử Trung Quốc cho rằng sau khi Jayavarman I của Chân Lạp qua đời vào khoảng năm 681, tình trạng hỗn loạn xảy ra sau đó dẫn đến sự phân chia vương quốc thành Chân Lạp Đất và Chân Lạp Nước, vốn được cai trị lỏng lẻo bởi các hoàng tử yếu kém dưới sự thống trị của Java.
Đế chế Khmer đã phát triển từ những tàn tích này của Chân Lạp, trở nên vững chắc vào năm 802 khi Jayavarman II (trị vì khoảng 790-835) tuyên bố độc lập khỏi Java và tự xưng là Devaraja. Ông và những người theo ông đã thiết lập sự sùng bái Chúa-vua và bắt đầu một loạt các cuộc chinh phạt để hình thành một đế chế phát triển mạnh mẽ trong khu vực từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 15. Trong thời kỳ cai trị của Jayavarman VIII, đế chế Angkor đã bị tấn công bởi quân đội Mông Cổ của Hốt Tất Liệt, tuy nhiên nhà vua có thể đã dùng tiền mua hòa bình. Vào khoảng thế kỷ 13, các nhà sư từ Sri Lanka đã du nhập Phật giáo Nguyên thủy đến Đông Nam Á. Tôn giáo này lan rộng và cuối cùng thay thế Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa trở thành tôn giáo phổ biến của Angkor; tuy nhiên nó không phải là quốc giáo chính thức cho đến năm 1295 khi Indravarman III nắm quyền.
Đế chế Khmer là đế chế lớn nhất Đông Nam Á trong thế kỷ 12. Trung tâm quyền lực của đế chế là Angkor, nơi có một loạt thủ đô được xây dựng trong thời kỳ cực thịnh của đế chế. Năm 2007, một nhóm nghiên cứu quốc tế của các nhà nghiên cứu sử dụng ảnh vệ tinh và kỹ thuật hiện đại khác đã kết luận rằng Angkor đã từng là thành phố thời kỳ tiền công nghiệp lớn nhất trên thế giới với mức phát triển đô thị lên tới 2.980 kilômét vuông (1.151 dặm vuông Anh). Thành phố Angkor có thể có dân số lên đến một triệu người và Angkor Wat, ngôi đền tôn giáo được biết đến và được bảo tồn tốt nhất tại địa điểm, vẫn là lời nhắc nhở về quá khứ của Campuchia với tư cách là một cường quốc lớn trong khu vực. Đế chế này mặc dù đã suy tàn, vẫn là một thế lực đáng kể trong khu vực cho đến khi sụp đổ vào thế kỷ 15.
Thời kỳ hậu Angkor
| Lịch sử Campuchia |
|

|
| Phù Nam (thế kỷ 1- 550) |
| Chân Lạp (550-802) |
| Đế quốc Khmer (802-1432) |
| Thời kỳ hậu Angkor (1432-1863) |
| Campuchia thuộc Pháp (1863-1946) |
| Campuchia thuộc Nhật (1945) |
| Vương quốc Campuchia (1946-1953) |
| Vương quốc Campuchia (1953-1970) |
| Cộng hòa Khmer (1970-1975) |
| Campuchia Dân chủ (1975-1979) |
| Cộng hòa Nhân dân Campuchia (1979-1989) |
| Liên minh chính phủ Kampuchea Dân chủ (1982-1992) |
| Nhà nước Campuchia (1989-1992) |
| Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (1992-1993) |
| Vương quốc Campuchia (1993-nay) |
| sửa |
Sau một loạt các cuộc chiến tranh kéo dài với các vương quốc láng giềng, Angkor bị Vương quốc Ayutthaya cướp phá và bỏ hoang vào năm 1432 vì sự thất bại về hệ sinh thái và cơ sở hạ tầng. Điều này dẫn đến một thời kỳ trì trệ về kinh tế, xã hội và văn hóa khi các vấn đề nội bộ của vương quốc ngày càng nằm dưới sự kiểm soát của các nước láng giềng. Vào thời điểm này, xu hướng xây dựng tượng đài của người Khmer đã không còn. Các tín ngưỡng cũ hơn như Phật giáo Đại thừa và tín ngưỡng thờ thần của Ấn Độ giáo đã được thay thế bằng Phật giáo Nguyên thủy.
Triều đình dời đô đến Longvek nơi vương quốc tìm cách lấy lại vinh quang thông qua thương mại hàng hải. Lần đầu tiên đề cập đến Campuchia trong các tài liệu châu Âu là vào năm 1511 bởi người Bồ Đào Nha. Các du khách Bồ Đào Nha mô tả thành phố này là nơi phát triển của sự giàu có và ngoại thương. Các cuộc chiến tiếp diễn với Ayutthaya và người Việt dẫn đến việc mất thêm lãnh thổ và Longvek bị vua Naresuan Đại đế Ayutthaya chinh phục và tiêu diệt vào năm 1594. Một thủ đô mới của người Khmer được thành lập tại Oudong, phía nam Longvek vào năm 1618, nhưng các quốc vương của nó chỉ có thể tồn tại bằng cách tham gia vào những mối quan hệ chư hầu xen kẽ với người Xiêm và Việt Nam trong ba thế kỷ tiếp theo với chỉ một vài giai đoạn độc lập tương đối ngắn ngủi..
Những người Khmer Loeu ở Campuchia đã bị "người Xiêm (Thái), người An Nam (Việt) và người Campuchia săn đuổi không ngừng và đem làm nô lệ ".
Vào thế kỷ 19, một cuộc đấu tranh mới giữa Xiêm và Việt Nam để giành quyền kiểm soát Campuchia đã dẫn đến thời kỳ các quan chức Việt Nam cố gắng ép buộc người Khmer áp dụng phong tục của Việt Nam. Điều này dẫn đến một số cuộc nổi dậy chống lại người Việt Nam và kêu gọi sự trợ giúp của Thái Lan. Chiến tranh Xiêm-Việt (1841–1845) kết thúc với một thỏa thuận đặt đất nước dưới quyền thống trị chung. Điều này sau đó đã dẫn đến việc Quốc vương Norodom Prohmborirak ký hiệp ước Bảo hộ Campuchia của Pháp.
Thời kỳ thuộc Pháp
Năm 1863, Vua Norodom, người được Xiêm La đưa lên ngôi, tìm cách bảo vệ Campuchia khỏi ách thống trị của Pháp. Năm 1867, Rama IV ký một hiệp ước với Pháp, từ bỏ quyền độc tôn đối với Campuchia để đổi lấy quyền kiểm soát các tỉnh Battambang và Siem Reap chính thức trở thành một phần của Xiêm. Các tỉnh này được nhượng trở lại cho Campuchia theo hiệp ước biên giới giữa Pháp và Xiêm năm 1907.
Campuchia tiếp tục là quốc gia bảo hộ của Pháp từ năm 1867 đến năm 1953, được quản lý như một phần thuộc địa của Đông Dương thuộc Pháp, mặc dù bị đế quốc Nhật Bản chiếm đóng từ năm 1941 đến năm 1945. Từ năm 1874 đến năm 1962, tổng dân số nước này tăng từ khoảng 946.000 người lên 5,7 triệu. Sau cái chết của Vua Norodom vào năm 1904, Pháp thao túng việc lựa chọn nhà vua, và Sisowath, anh trai của Norodom, được lên ngôi. Ngôi vị bị bỏ trống vào năm 1941 với cái chết của Monivong, con trai của Sisowath, và Pháp chuyển giao cho con trai của Monivong, Monireth, cảm thấy ông ta có tư duy quá độc lập. Thay vào đó, Norodom Sihanouk, cháu ngoại của Vua Sisowath lên ngôi. Người Pháp nghĩ rằng Sihanouk trẻ tuổi sẽ dễ dàng bị kiểm soát. Tuy nhiên, họ đã sai và dưới thời trị vì của Vua Norodom Sihanouk, Campuchia đã giành được độc lập từ Pháp vào ngày 9 tháng 11 năm 1953.
Độc lập và Chiến tranh Việt Nam

Norodom Sihanouk và Mao Trạch Đông vào năm 1956
Campuchia trở thành một quốc gia quân chủ lập hiến dưới thời Quốc vương Norodom Sihanouk. Khi Liên bang Đông Dương được trao trả độc lập, Campuchia mất hy vọng giành lại quyền kiểm soát đồng bằng sông Cửu Long khi Pháp trao vùng này cho Việt Nam. Trước đây đồng bằng này là một phần của Đế chế Khmer, khu vực này do người Việt Nam kiểm soát từ năm 1698, với việc Vua Chey Chettha II cho phép người Việt Nam đến định cư trong khu vực này nhiều thập kỷ trước năm 1698.
Năm 1955, Sihanouk thoái vị để cha tham gia chính trường và được bầu làm thủ tướng. Sau khi cha của Sihanouk qua đời vào năm 1960, Sihanouk một lần nữa trở thành nguyên thủ quốc gia, lấy danh hiệu Thái tử. Khi Chiến tranh Việt Nam tiến triển, Sihanouk áp dụng chính sách trung lập chính thức trong Chiến tranh Lạnh. Sihanouk cho phép cộng sản Việt Nam sử dụng Campuchia như một nơi ẩn náu và một con đường tiếp tế vũ khí và viện trợ khác cho các lực lượng vũ trang của họ đang chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Chính sách này bị nhiều người Campuchia cho là nhục nhã. Vào tháng 12 năm 1967, nhà báo Stanley Karnow của Washington Post được Sihanouk cho biết nếu Mỹ muốn ném bom vào các mật khu của cộng sản Việt Nam, ông sẽ không phản đối, trừ khi người Campuchia bị chết.
Thông điệp tương tự đã được chuyển tới phái viên Chester Bowles của Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson vào tháng 1 năm 1968. Tuy nhiên, trước công chúng, Sihanouk bác bỏ quyền của Mỹ không kích ở Campuchia, vào ngày 26 tháng 3, ông nói rằng "các cuộc tấn công tội phạm này phải dừng lại ngay lập tức và dứt khoát". Vào ngày 28 tháng 3, một cuộc họp báo đã được tổ chức và Sihanouk kêu gọi các phương tiện truyền thông quốc tế: "Tôi kêu gọi các bạn công bố ra nước ngoài lập trường rất rõ ràng về Campuchia — nghĩa là, trong mọi trường hợp, tôi sẽ phản đối tất cả các vụ đánh bom trên lãnh thổ Campuchia với bất kỳ lý do gì." Tuy nhiên, sự phản đối của Sihanouk đã bị phớt lờ và các vụ đánh bom vẫn tiếp tục. Các thành viên trong chính phủ và quân đội Campuchia trở nên bất bình với phong cách cai trị của Sihanouk cũng như việc ông ta rời xa nước Mỹ.
Cộng hòa Khmer (1970-1975)

Hàng chục nghìn người đã thiệt mạng trong việc Hoa Kỳ ném bom Campuchia từ năm 1970 đến năm 1973.

Chiến dịch Eagle Pull
Khi đến thăm Bắc Kinh năm 1970, Sihanouk bị Thủ tướng Lon Nol và Vương tử Sisowath Sirik Matak lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với cuộc đảo chính vẫn chưa được chứng minh. Tuy nhiên, ngay khi cuộc đảo chính hoàn tất, chế độ mới đã ngay lập tức yêu cầu cộng sản Việt Nam rời Campuchia. Việc này đã khiến chế độ mới có được sự ủng hộ chính trị của Hoa Kỳ. Các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, với nỗ lực tuyệt vọng để giữ lại các mật khu và đường tiếp tế từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngay lập tức mở các cuộc tấn công vũ trang vào chính phủ mới. Nhà vua kêu gọi các tín đồ của mình giúp đỡ trong việc lật đổ chính phủ mới này, khiến cuộc nội chiến được đẩy mạnh.
Ngay sau đó, lực lượng Khmer Đỏ bắt đầu sử dụng hình ảnh nhà vua để được người dân hỗ trợ. Tuy nhiên, từ năm 1970 đến đầu năm 1972, xung đột Campuchia chủ yếu là giữa chính phủ và quân đội Campuchia, và các lực lượng vũ trang của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành được quyền kiểm soát lãnh thổ Campuchia, những người cộng sản Việt Nam đã áp đặt một cơ sở hạ tầng chính trị mới, cơ sở hạ tầng này cuối cùng bị thống trị bởi lực lượng cộng sản Campuchia. Từ năm 1969 đến đến năm 1973, Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ ném bom Campuchia nhằm tiêu diệt Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Khmer Đỏ.
Các tài liệu được tiết lộ từ các kho lưu trữ của Liên Xô sau năm 1991 cho thấy rằng việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cố gắng đánh chiếm Campuchia vào năm 1970 đã được thực hiện theo yêu cầu rõ ràng của Khmer Đỏ và được Nuon Chea, người chỉ huy thứ hai của Pol Pot yêu cầu. Các đơn vị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiếm nhiều vị trí của quân đội Campuchia trong khi Đảng Cộng sản Campuchia mở rộng các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào các đường liên lạc. Để đối phó với cuộc xâm lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tuyên bố rằng các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành Chiến dịch Campuchia vào Campuchia nhằm tiêu diệt các khu căn cứ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Campuchia. Mặc dù một số lượng đáng kể vũ khí, thiết bị quân sự đã bị quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa thu giữ hoặc phá hủy, việc ngăn chặn các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tỏ ra khó khăn.
Ban lãnh đạo của Cộng hòa Khmer bị cản trở bởi sự mất đoàn kết giữa ba nhân vật chính của nó: Lon Nol, Sirik Matak, em họ của Sihanouk, và lãnh đạo Quốc hội In Tam. Lon Nol vẫn nắm quyền, một phần vì không ai trong số những người khác chuẩn bị thay thế vị trí của ông. Năm 1972, hiến pháp được thông qua, quốc hội được bầu ra và Lon Nol trở thành tổng thống. Nhưng sự mất đoàn kết trong chính quyền, những vấn đề trong việc chuyển đổi một đội quân 30.000 người thành một lực lượng chiến đấu quốc gia với hơn 200.000 người, và nạn tham nhũng lan rộng đã làm suy yếu chính quyền dân sự và quân đội.
Các cuộc nổi dậy của Cộng sản ở Campuchia tiếp tục phát triển, được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hỗ trợ bằng tiếp tế và giúp đỡ quân sự. Pol Pot và Ieng Sary khẳng định quyền thống trị của họ đối với những người cộng sản do Việt Nam đào tạo, nhiều người trong số họ đã bị thanh trừng. Đồng thời, lực lượng Khmer Đỏ trở nên mạnh hơn và độc lập hơn với những người bảo trợ Việt Nam của họ. Đến năm 1973, Khmer Đỏ đã chiến đấu chống lại các lực lượng chính phủ với ít hoặc không có sự hỗ trợ của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và họ kiểm soát gần 60% lãnh thổ và 25% dân số của Campuchia. Chính phủ Campuchia đã ba lần cố gắng trong việc đàm phán với quân nổi dậy nhưng không thành công. Năm 1974, các sư đoàn Khmer Đỏ hoạt động công khai và một số lực lượng chiến đấu của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã di chuyển vào miền Nam Việt Nam. Quyền kiểm soát của Lon Nol bị giảm xuống các khu vực nhỏ xung quanh các thành phố và các tuyến đường giao thông chính. Hơn 2 triệu người tị nạn chiến tranh sống ở Phnôm Pênh và các thành phố khác.
Đầu năm 1975, Khmer Đỏ mở một cuộc tấn công 117 ngày làm sụp đổ Cộng hòa Khmer. Các cuộc tấn công đồng thời xung quanh vành đai Phnôm Pênh đã chèn ép các lực lượng chính phủ, trong khi các đơn vị Khmer Đỏ khác áp đảo các căn cứ hỏa lực kiểm soát tuyến đường tiếp tế quan trọng ở hạ lưu sông Mê Kông. Một cuộc vận chuyển đạn dược và gạo do Hoa Kỳ tài trợ đã kết thúc khi Quốc hội từ chối viện trợ bổ sung cho Campuchia. Chính phủ Lon Nol ở Phnôm Pênh đầu hàng vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, chỉ năm ngày sau khi phái bộ Hoa Kỳ sơ tán khỏi Campuchia.
Campuchia Dân chủ (1975-1978)
Bài chi tiết: Campuchia Dân chủ

Choeung Ek, một địa điểm nổi tiếng là ngôi mộ tập thể cho các nạn nhân diệt chủng trong thời kỳ Khmer Đỏ
Năm 1975, Khmer Đỏ chiếm Phnôm Pênh và thành lập nhà nước Campuchia Dân chủ dưới sự lãnh đạo của Pol Pot. Chế độ mới mô phỏng theo Trung Quốc trong thời kỳ Đại nhảy vọt, ngay lập tức sơ tán dân chúng khỏi các thành phố, và gửi toàn bộ người dân đi tuần hành cưỡng bức đến các dự án công trình nông thôn. Họ đã cố gắng xây dựng lại nền nông nghiệp của Campuchia theo mô hình của thế kỷ 11, loại bỏ y học phương Tây và phá hủy các ngôi đền, thư viện và bất cứ thứ gì được coi là phương Tây.
Ước tính có khoảng từ một đến ba triệu người bị chế độ Khmer Đỏ giết hại; con số được trích dẫn phổ biến nhất là hai triệu (khoảng một phần tư dân số Campuchia lúc đó). Thời đại này đã sinh ra thuật ngữ cánh đồng chết, và nhà tù Tuol Sleng trở nên khét tiếng với lịch sử giết người hàng loạt. Hàng trăm nghìn người đã chạy qua biên giới sang nước láng giềng Thái Lan. Chế độ này nhắm vào các nhóm dân tộc thiểu số một cách không cân đối. Khoảng một nửa dân số người Chăm bị tiêu diệt. Tuy nhiên, hầu hết nạn nhân của chế độ Khmer Đỏ không phải là người dân tộc thiểu số mà là người Khmer. Giới tri thức, ví dụ như chuyên gia, bác sĩ, luật sư giáo viên, cũng bị tiêu diệt. Theo Robert D. Kaplan, "kính đeo mắt là thứ chết chóc như ngôi sao vàng Do Thái" vì chúng được coi là dấu hiệu của trí thức. Pol Pot quyết tâm giữ quyền lực và tước quyền của bất kỳ kẻ thù hoặc mối đe dọa tiềm tàng nào, và do đó gia tăng các hành động bạo lực và hung hãn chống lại người dân.
Các tổ chức tôn giáo cũng không được Khmer Đỏ bỏ qua. Tôn giáo bị đàn áp dã man đến nỗi phần lớn các kiến trúc lịch sử của Campuchia, 95% các ngôi chùa Phật giáo của Campuchia, đã bị phá hủy hoàn toàn.
Cộng hòa Nhân dân Campucia (1978-1992)
Tháng 11 năm 1978, Việt Nam phát động Chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia để đáp trả các cuộc tấn công của Khmer Đỏ. Chế độ Khmer Đỏ bị lật đổ và Cộng hòa Nhân dân Campuchia được thành lập, một nhà nước thân Việt Nam do Đảng Cách mạng Nhân dân Campuchia lãnh đạo. Đây là đảng do Việt Nam thành lập vào năm 1951, và do một nhóm lãnh đạo Khmer Đỏ trốn khỏi Campuchia để tránh bị Pol Pot và Ta Mok thanh trừng đứng đầu. Đảng này hoàn toàn đi theo quân đội Việt Nam và chịu sự chỉ đạo của đại sứ Việt Nam tại Phnôm Pênh. Việt Nam và Liên Xô cung cấp vũ khí cho tổ chức này.
Đối lập với Cộng hòa Nhân dân Campuchia là Liên minh chính phủ Kampuchea Dân chủ (CGDK), một chính phủ lưu vong được thành lập vào năm 1981 gồm ba phe phái: Khmer Đỏ, một phe bảo hoàng do Norodom Sihanouk lãnh đạo, và Mặt trận Giải phóng Dân tộc Nhân dân Khmer. Liên Hợp Quốc công nhận CGDK là đại diện hợp pháp của Campuchia tại Liên Hợp Quốc và từ chối công nhận Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Các nỗ lực đàm phán hòa bình cho Campuchia bắt đầu ở Paris vào năm 1989, lên đến đỉnh điểm vào tháng 10 năm 1991 trong Hiệp định Hòa bình Paris. Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia được giao nhiệm vụ thực thi một lệnh ngừng bắn và đối phó với người tị nạn và giải trừ quân bị.
Vương quốc Campuchia (1993 – hiện tại)
Bài chi tiết: Norodom Sihanouk
Năm 1993, Norodom Sihanouk được khôi phục làm quốc vương, nhưng tất cả quyền lực nằm trong tay chính phủ được thành lập sau cuộc bầu cử do UNTAC bảo trợ. Sự ổn định được thiết lập sau cuộc xung đột đã bị lung lay vào năm 1997 bởi một cuộc đảo chính do đồng Thủ tướng Hun Sen lãnh đạo chống lại các đảng không phải cộng sản trong chính phủ. Sau khi chính phủ ổn định dưới thời Hun Sen, Campuchia gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào ngày 30 tháng 4 năm 1999. Trong những năm gần đây, các nỗ lực tái thiết đã tiến triển và giúp tăng cường ổn định chính trị. Mặc dù sự cai trị của Hun Sen gây ra nhiều vi phạm nhân quyền và tham nhũng, hầu hết công dân Campuchia trong suốt thập niên 2000 vẫn chấp nhận chính phủ này; các cuộc phỏng vấn với những người dân nông thôn Campuchia vào năm 2008 cho thấy họ ưa thích một hiện trạng ổn định hơn là các thay đổi có thể gây ra bạo lực.
Nền kinh tế Campuchia tăng trưởng nhanh chóng trong thập niên 2000 và 2010, và Campuchia nhận được sự hỗ trợ đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng đáng kể từ Trung Quốc trong khuôn khổ Một vành đai, Một con đường.

Các cuộc biểu tình chống chính phủ ủng hộ đảng đối lập CNRP đã diễn ra ở Campuchia sau cuộc tổng tuyển cử năm 2013.
Là một tòa án xét xử tội ác chiến tranh do Liên Hợp Quốc hậu thuẫn, Tòa án Khmer Đỏ đã tìm cách điều tra các tội ác đã xảy ra trong thời kỳ Khmer Đỏ và truy tố các nhà lãnh đạo của nó. Tuy nhiên, Hun Sen đã phản đối các cuộc xét xử hoặc điều tra mở rộng đối với các cựu quan chức Khmer Đỏ. Tháng 7 năm 2010, Kang Kek Iew là thành viên Khmer Đỏ đầu tiên bị kết tội chiến tranh và tội ác chống lại loài người trong vai trò cựu chỉ huy của trại tiêu diệt S21 và đã bị kết án tù chung thân. Tháng 8 năm 2014, tòa án kết án Khieu Samphan, cựu nguyên thủ quốc gia 83 tuổi của chế độ, và Nuon Chea, 88 tuổi, người có tư tưởng chính của nó, tù chung thân về tội ác chiến tranh vì vai trò của họ trong vụ khủng bố đất nước. trong những năm 1970. Các phiên tòa bắt đầu vào tháng 11 năm 2011. Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ieng Sary qua đời vào năm 2013, trong khi vợ ông, Bộ trưởng Các vấn đề xã hội Ieng Thirith, được cho là không đủ khả năng để hầu tòa do chứng mất trí nhớ vào năm 2012.
Sau cuộc tổng tuyển cử năm 2013, các cáo buộc gian lận cử tri từ Đảng Cứu quốc Campuchia dẫn đến các cuộc biểu tình chống chính phủ lan rộng kéo dài sang năm sau. Các cuộc biểu tình kết thúc sau một cuộc đàn áp của lực lượng chính phủ. Đảng Cứu quốc Campuchia bị giải thể trước cuộc tổng tuyển cử năm 2018 và Đảng Nhân dân Campuchia cũng ban hành các biện pháp hạn chế chặt chẽ hơn trên các phương tiện truyền thống đại chúng. CPP giành được mọi ghế trong Quốc hội mà không có phe đối lập lớn, củng cố một cách hiệu quả chế độ độc đảng trên thực tế.
Đại dịch COVID-19 lây lan sang Campuchia vào đầu năm 2020. Mặc dù đã giảm thiểu sự lây lan của căn bệnh này trong phần lớn năm 2020 hệ thống y tế của Campuchia bị căng thẳng do một đợt bùng phát lớn vào đầu năm 2021, dẫn đến một số đợt phong tỏa. Nó cũng có tác động kinh tế nghiêm trọng, với ngành du lịch đặc biệt bị ảnh hưởng do các hạn chế về du lịch quốc tế.
Địa lý
Bài chi tiết: Địa lý Campuchia
Diện tích Campuchia khoảng 181.035 km², nằm trọn vẹn trong khu vực nhiệt đới; từ vĩ độ 10 đến vĩ độ 15N kinh độ 102 đến 108E. Đất nước có 800 km biên giới với Thái Lan về phía bắc và phía tây, 541 km biên giới với Lào về phía đông bắc, và 1.137 km biên giới với Việt Nam về phía đông và đông nam. Nước này có 443 km bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan. Nhìn trên bản đồ, lãnh thổ Campuchia có hình dáng gần giống như lưỡi rìu tứ giác, cạnh không đều.

Người nông dân Campuchia
Đặc điểm địa hình nổi bật là một vùng đồng bằng lớn nằm giữa những ngọn núi thấp bao gồm vùng hồ Tonlé Sap (Biển Hồ) và vùng thượng lưu đồng bằng sông Cửu Long. Biển Hồ có diện tích khoảng 2.590 km² trong mùa khô tới khoảng 24.605 km² về mùa mưa. Đây là một đồng bằng đông dân, phù hợp cho cấy lúa nước, tạo thành vùng đất trung tâm Campuchia. Phần lớn (khoảng 75%) diện tích đất nước nằm ở cao độ dưới 100 mét so với mực nước biển, ngoại trừ dãy núi Cardamon (điểm cao nhất là 1.771 m), phần kéo dài theo hướng bắc-nam về phía đông của nó là dãy Voi (cao độ 500-1.000 m) và dốc đá thuộc dãy núi Dangrek (cao độ trung bình 500 m) dọc theo biên giới phía bắc với Thái Lan.
Khí hậu

Phân loại khí hậu Köppen của Campuchia
Khí hậu Campuchia cũng giống như khí hậu các nước Đông Nam Á khác, bị chi phối bởi gió mùa. Khí hậu khô và ẩm ướt rõ rệt theo mùa. Nhiệt độ dao động trong khoảng 21 °C - 35 °C. Campuchia có các mùa mưa nhiệt đới: gió tây nam từ Vịnh Thái Lan/Ấn Độ Dương đi vào đất liền theo hướng đông bắc mang theo hơi ẩm tạo thành những cơn mưa từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó lượng mưa lớn nhất vào khoảng tháng 9, tháng 10; gió đông bắc thổi theo hướng tây nam về phía biển trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, với thời kỳ ít mưa nhất là tháng 1, tháng 2. Theo Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế và Liên hợp quốc, Campuchia được xem là quốc gia dễ bị tổn thương nhất của Đông Nam Á trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cùng với Phillippines. Dân số nông thôn ven biển đặc biệt có nguy cơ cao hơn. Theo Hiệp hội Cải cách Khí hậu Campuchia, tình trạng thiếu nước sạch, lũ lụt cực đoan, lở đất, mực nước biển dâng cao và các trận bão có khả năng phá hoại là mối quan tâm đặc biệt.
Campuchia có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, có thể thấy nhiệt độ giảm xuống 22 °C (71,6 °F) và thường có độ ẩm cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 khi nhiệt độ có thể tăng lên đến 40 °C (104 °F) vào khoảng tháng 4. Lũ lụt trầm trọng xảy ra vào năm 2001 và một lần nữa vào năm 2002, với mức độ ngập lụt gần như mỗi năm.
Campuchia cũng là quốc gia có nhiều loài động vật quý hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voi và bò tót khổng lồ. Rất nhiều loài đang đứng trước hiểm họa diệt chủng do nạn săn trộm và phá rừng.
Chính trị
Bài chi tiết: Chính trị Campuchia

Quốc vương
Norodom Sihamoni

Thủ tướng
Hun Manet
Campuchia là một nước quân chủ lập hiến theo hình thức quân chủ tuyển cử. Quốc vương do Hội đồng Tôn vương gồm 9 thành viên lựa chọn. Norodom Sihanouk là quốc vương đầu tiên của Vương quốc Campuchia sau khi ông trở lại làm vua vào tháng 9 năm 1993. Sau khi Quốc vương Norodom Sihanouk thoái vị làm Thái thượng vương vào tháng 10 năm 2004, Hội đồng Tôn vương lựa chọn Thái tử Norodom Sihamoni làm quốc vương mới.
Nghị viện Campuchia là cơ quan lập pháp lưỡng viện, gồm Thượng viện và Quốc hội. Thượng viện gồm 61 thượng nghị sĩ với nhiệm kỳ 6 năm, Quốc hội gồm 123 thành viên với nhiệm kỳ 5 năm. Đảng Nhân dân Campuchia là đảng cầm quyền kể từ năm 1981 và luôn chiếm đa số ghế trong Thượng viện và Quốc hội.
Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ, đứng đầu Nội các Campuchia. Thủ tướng đương nhiệm là Hun Manet thuộc Đảng Nhân dân Campuchia.
Quan hệ đối ngoại
Bài chi tiết: Quan hệ ngoại giao của Campuchia
Bộ Ngoại giao và Hợp tác quốc tế Campuchia quản lý quan hệ đối ngoại của Campuchia, đứng đầu là Bộ trưởng Prak Sokhonn.
Campuchia là thành viên của Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Tổ chức Thương mại Thế giới. Năm 2005, Campuchia tham dự Hội nghị thượng đỉnh Đông Á tại Malaysia. Campuchia lần đầu tiên trở thành thành viên IAEA vào ngày 6 tháng 2 năm 1958 nhưng từ bỏ vị trí thành viên của mình vào ngày 26 tháng 3 năm 2003. Ngày 23 tháng 11 năm 2009, Campuchia phục hồi lại là thành viên của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Campuchia thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, bao gồm 20 đại sứ quán bao gồm nhiều nước láng giềng châu Á và những đối tác quan trọng trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris, trong đó có Hoa Kỳ, Úc, Canada, Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, và Nga Như một kết quả của quan hệ quốc tế, tại Campuchia còn có các tổ chức nhân đạo khác nhau đã hỗ trợ các nhu cầu cơ sở hạ tầng xã hội, kinh tế và dân sự...
Nhân quyền
Giám đốc Đông Nam Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, David Roberts, mô tả Campuchia là một "chế độ tương đối độc tài với một bề ngoài dân chủ". Về mặt hiến pháp là một nền dân chủ tự do đa đảng, nhưng trên thực tế Campuchia là một chế độ đơn đảng kể từ năm 2018.
Phân cấp hành chính
Bài chi tiết: Phân cấp hành chính Campuchia
Về mặt hành chính, Campuchia được chia thành 24 tỉnh và thủ đô Phnôm Pênh. Các tỉnh và Phnôm Pênh được chia thành 159 huyện và 26 thành phố, mỗi quận, thành phố được chia thành các xã, phường.
| Số |
Tỉnh |
Thủ phủ |
Diện tích (km2) |
Dân số
(2019)
|
| 1 |
Banteay Meanchey |
Serei Saophoan |
6,679 |
861,883 |
| 2 |
Battambang |
Battambang |
11,702 |
997,169 |
| 3 |
Kampong Cham |
Kampong Cham |
4,549 |
899,791 |
| 4 |
Kampong Chhnang |
Kampong Chhnang |
5,521 |
527,027 |
| 5 |
Kampong Speu |
Chbar Mon |
7,017 |
877,523 |
| 6 |
Kampong Thom |
Stung Saen |
13,814 |
681,549 |
| 7 |
Kampot |
Kampot |
4,873 |
593,829 |
| 8 |
Kandal |
Ta Khmau |
3,179 |
1,201,581 |
| 9 |
Kep |
Kep |
336 |
42,665 |
| 10 |
Koh Kong |
Khemarak Phoumin |
10,090 |
125,902 |
| 11 |
Kratié |
Kratié |
11,094 |
374,755 |
| 12 |
Mondulkiri |
Senmonorom |
14,288 |
92,213 |
| 13 |
Oddar Meanchey |
Samraong |
6,158 |
276,038 |
| 14 |
Pailin |
Pailin |
803 |
75,112 |
| 15 |
Phnôm Pênh |
Phnôm Pênh |
679 |
2,281,951 |
| 16 |
Sihanoukville |
Sihanoukville |
1,938 |
310,072 |
| 17 |
Preah Vihear |
Preah Vihear |
13,788 |
254,827 |
| 18 |
Pursat |
Pursat |
12,692 |
419,952 |
| 19 |
Prey Veng |
Prey Veng |
4,883 |
1,057,720 |
| 20 |
Ratanakiri |
Banlung |
10,782 |
217,453 |
| 21 |
Siem Reap |
Siem Reap |
10,299 |
1,014,234 |
| 22 |
Stung Treng |
Stung Treng |
11,092 |
165,713 |
| 23 |
Svay Rieng |
Svay Rieng |
2,966 |
525,497 |
| 24 |
Takéo |
Doun Kaev |
3,563 |
900,914 |
| 25 |
Tboung Khmom |
Suong |
5,250 |
776,841 |
|

|
Kinh tế
Bài chi tiết: Kinh tế Campuchia
Bài chi tiết: Tiền tệ Campuchia

GDP bình quân đầu người của Campuchiatừ năm 1950 đến năm 2018
Trong khi thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp so với hầu hết các nước láng giềng, Campuchia là một trong những nền kinh tế đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á, với mức tăng trưởng trung bình 7,6% trong thập kỷ qua. Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo, với sự tăng trưởng mạnh mẽ của dệt may, xây dựng và du lịch dẫn đến đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế tăng. Liên Hợp Quốc xếp Campuchia vào nhóm các quốc gia kém phát triển nhất trên thế giới. Chỉ số Nhà nước về Pháp quyền năm 2015 của Dự án Tư pháp Thế giới (Hoa Kỳ) xếp Campuchia thứ 125 trên 126 quốc gia, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực.
Sự phát triển của nền kinh tế Campuchia bị chậm lại một cách đáng kể trong thời kỳ 1997-1998 vì khủng hoảng kinh tế trong khu vực, bạo lực và xung đột chính trị. Đầu tư nước ngoài và du lịch giảm mạnh. Trong năm 1999, năm đầu tiên có được hòa bình thực sự trong vòng 30 năm, đã có những biến đổi trong cải cách kinh tế và tăng trưởng đạt được ở mức 5%. Mặc dù bị lũ lụt, GDP tăng trưởng ở mức 5.0% trong năm 2000, 6.3% trong năm 2001 và 5.2% trong năm 2002. Du lịch là ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh nhất của Campuchia, với số du khách tăng 34% trong năm 2000 và 40% trong năm 2001 trước sự kiện khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ. Mặc dù đạt được những sự tăng trưởng như vậy nhưng sự phát triển dài hạn của nền kinh tế sau hàng chục năm chiến tranh vẫn là một thách thức to lớn. Dân cư thất học và thiếu các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn nghèo đói gần như chưa có các điều kiện cần thiết của cơ sở hạ tầng. Sự lo ngại về không ổn định chính trị và tệ nạn tham nhũng trong một bộ phận chính quyền làm chán nản các nhà đầu tư nước ngoài và làm chậm trễ các khoản trợ giúp quốc tế. Chính quyền đang phải giải quyết các vấn đề này với sự hỗ trợ của các tổ chức song phương và đa phương. Campuchia bị Liên Hợp Quốc xem là một trong các nước kém phát triển nhất tại Châu Á do mức thu nhập thấp, nguồn lực con người nghèo nàn và có nền kinh tế dễ bị tổn thương.
Nhân khẩu
Bài chi tiết: Nhân khẩu Campuchia
Lịch sử dân số
| Năm |
Số dân |
±% năm |
| 1962 |
5.728.771 |
— |
| 1980 |
6.600.000 |
+0.79% |
| 1994 |
9.900.000 |
+2.94% |
| 1996 |
10.700.000 |
+3.96% |
| 1998 |
11.437.656 |
+3.39% |
| 2004 |
12.800.000 |
+1.89% |
| 2008 |
13.395.682 |
+1.14% |
| 2013 |
14.700.000 |
+1.88% |
| 2019 |
15.552.211 |
+0.94% |
| Viện Thống kê Quốc gia: Tổng điều tra dân số Vương quốc Campuchia 2019, Chương 2, p. 6 |
Campuchia tiến hành cuộc điều tra dân số đầu tiên vào năm 1921 đối với đàn ông từ 20 đến 60 tuổi nhằm mục đích thu thuế. Từ năm 1962 đến năm 1998, Campuchia không tiến hành điều tra dân số chính thức do xung đột, bất ổn nội bộ.
Cuộc nội chiến và nạn diệt chủng dưới thời Khmer Đỏ có ảnh hưởng mạnh đến cấu trúc dân số Campuchia. Độ tuổi trung bình là 20,6, với hơn 50% dân cư trẻ hơn 25 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 0.95, thấp nhất trong số các quốc gia tiểu khu vực sông Mê Kông. Trong số người Campuchia độ tuổi hơn 65, tỷ lệ nữ/nam là 1,6:1.
Dân tộc

Bản đồ dân tộc của Campuchia
Thành phần dân tộc của Campuchia tương đối đồng nhất. 95,8% dân số Campuchia là người Khmer và sử dụng tiếng Khmer. Các dân tộc thiểu số của Campuchia bao gồm người Chăm (1,8%), người Việt (0,5%) và người gốc Hoa (0,6%).
Tôn giáo
Bài chi tiết: Tôn giáo ở Campuchia
Tôn giáo tại Campuchia (2019)
Phật giáo (97.1%)
Hồi giáo (2.0%)
Tín ngưỡng (0.6%)
Công giáo (0.3%)
Không tôn giáo và tôn giáo khác (0.2%)
Phật giáo Thượng tọa bộ là quốc giáo của Campuchia. 95% dân số Campuchia theo Phật giáo với ước tính khoảng 4.392 đền thờ, tu viện trên cả nước. Phần lớn người Khmer theo Phật giáo, và có những hiệp hội gần gũi giữa Phật giáo, truyền thống văn hóa và cuộc sống hằng ngày. Tuân thủ Đạo Phật thường được xem là bản sắc dân tộc và văn hóa của đất nước.
2% dân số Campuchia theo Hồi giáo, là tôn giáo của đa số người Chăm và người Mã Lai. Đa số là người Hồi giáo Sunni và tập trung đông ở tỉnh Kampong Cham. Hiện nay có hơn 250.000 người Hồi giáo trong nước.
1% dân số Campuchia theo Kitô giáo, trong đó Công giáo tạo thành nhóm lớn nhất tiếp theo là Tin Lành. Hiện nay có 20.000 người Công giáo tại Campuchia, chiếm 0,15% tổng dân số. Các nhánh Kitô giáo khác bao gồm Báp-tít, Liên minh Kitô giáo và truyền giáo, Phong trào Giám Lý, Nhân chứng Giê-hô-va, Phong trào Ngũ Tuần, và Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô.
Phật giáo Đại thừa là tôn giáo của đa số người gốc Hoa và người Việt tại Campuchia. Các yếu tố của thực hành tôn giáo khác, chẳng hạn như việc tôn kính các anh hùng dân gian và tổ tiên, Nho giáo và Đạo giáo kết hợp với Phật giáo Trung Hoa cũng được thực hành.
Trước chế độ Khmer Đỏ, có 73.164 tín đồ đạo Cao Đài ở Campuchia, trong đó người Việt chiếm 64.954 người và số người Campuchia là 8210 người. Hiện nay, chỉ còn khoảng 2.000 tín đồ Cao Đài ở Campuchia tập trung ở Phnôm Pênh với một Thánh thất Cao Đài.
Ngôn ngữ
Bài chi tiết: Tiếng Khmer
Tiếng Khmer là ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ quốc gia của Campuchia. 90% dân số Campuchia sử dụng tiếng Khmer. Tiếng Pháp là chuyển ngữ tại một số trường đại học do Pháp tài trợ. Từ năm 1993, tiếng Anh bắt đầu thay thế tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ hai chính của Campuchia. Hiện tại, tiếng Anh được sử dụng trên tem, tiền tệ và trong quan hệ đối ngoại của Campuchia.
Giáo dục
Bài chi tiết: Giáo dục Campuchia

Viện Ngoại ngữ thuộc Đại học Hoàng gia Phnôm Pênh
Năm 2019, tỷ lệ biết chữ của Campuchia là 88,5% (91,1% nam giới và 86,2% nữ giới). Tỷ lệ biết chữ của nam giới từ 15 đến 24 là 89% so với 86% đối với nữ giới.
Y tế
Năm 2021, tuổi thọ trung bình của Campuchia là 75 tuổi, tăng đáng kể từ 55 tuổi vào năm 1995. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của Campuchia đã giảm từ 86 trên 1,.000 trẻ đẻ sống vào năm 1998 xuống 24 vào năm 2018. Ratanakiri là tỉnh có chất lượng y tế thấp nhất, với tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ở mức 22,9%.

Odong
Văn hóa
Bài chi tiết: Văn hóa Campuchia
Nền văn hóa Campuchia có lịch sử phong phú đa dạng trải qua nhiều thế kỷ và chịu ảnh hưởng nặng của Ấn Độ. Nền văn hóa Campuchia gây ảnh hưởng mạnh và được coi là mẹ đẻ của văn hóa Thái Lan, Lào. Trong lịch sử Campuchia, tôn giáo có vai trò lớn trong các hoạt động văn hóa. Trải qua gần 2000 năm, người dân Campuchia đã phát triển một tín ngưỡng Khmer độc đáo với các tín ngưỡng hỗn hợp gồm tín ngưỡng thuyết vật linh bản địa và các tôn giáo Ấn Độ như Phật giáo và Hindu giáo.
Ẩm thực
Bài chi tiết: Ẩm thực của Campuchia

Cá hấp amok Campuchia
Ẩm thực Campuchia, cũng như thói quen ẩm thực của nhiều dân tộc thuộc nền văn minh lúa nước trong khu vực châu Á, cho thấy những đặc điểm riêng biệt. Người dân Campuchia có thói quen ăn gạo tẻ và ăn nhiều cá hơn thịt. Vào các ngày lễ tết, nông thôn cũng như thành thị đều có gói bánh tét, bánh ít. Phần lớn trong mỗi gia đình đều có mắm bồ hóc để ăn quanh năm.
Ẩm thực Campuchia ảnh hưởng phong cách mạnh mẽ của Ấn Độ và Trung Hoa, hầu hết các món ăn có vị lạt, ngọt và béo. Món ăn Ấn Độ tìm thấy hầu hết ở các gia vị được dùng chủ yếu là cay như sa tế, ớt, tiêu, nhục, hồi v.v. Món ăn Trung Hoa được tìm thấy nhiều với vị lạt và khá béo, nhiều dầu mỡ nhất là mang phong cách ẩm thực vùng Tứ Xuyên.
Âm nhạc
Bài chi tiết: Âm nhạc Campuchia
Dàn nhạc ping peat (ngũ âm) và các nhạc cụ truyền thống tạo ra vô số các tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao và độc đáo. Âm nhạc truyền thống của Thái Lan và Lào cũng chịu ảnh hưởng lớn từ Campuchia.
Văn học
Bài chi tiết: Riêm kê


Nổi tiếng nhất là thể loại trường ca Riêm kê là thể loại sáng tác bằng thơ ca dân gian dài hàng vạn câu. Cốt truyện chủ yếu vay mượn từ sử thi Ramayana của Ấn Độ.
Nghệ thuật
Bài chi tiết: Kiến trúc của Campuchia

Bayon
Kiến trúc của Campuchia phần lớn được biết đến nhờ vào những công trình được xây dựng từ thời Khmer cổ đại (khoảng cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII). Đạo Phật và tư duy huyền thoại có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc vĩ đại này.
Đặc trưng cơ bản của kiến trúc giai đoạn này là được xây dựng từ vật liệu gỗ, tre nứa hoặc rơm rạ và đá. Nhưng những gì còn lại ngày nay người ta có thể chiêm ngưỡng là các công trình bằng đá tảng như các bức tường thành, đường sá,... và các ngôi đền hoặc các con đường có những bao lơn tạc hình con rắn chín đầu, vươn cao 2–3m, xòe rộng phủ bóng xuống mặt đường. Còn hình thức chung của các ngôi đền là có đỉnh chóp nhọn, bốn mặt đền được chạm trổ các bức phù điêu miêu tả cuộc sống con người ở thế giới bên kia, hoặc cuộc sống hiện tại của người dân Campuchia bấy giờ, hay cuộc chiến với nước láng giềng vũ nữ dân gian (Ápsara) với thân hình mềm mại, cân đối đang múa khá uyển chuyển, và sự tham gia của cả những con khỉ, con ngựa trong sử thi Ramanaya của Ấn Độ.
Bên cạnh đó, hình thức khắc những ký tự hay con số cũng rất phổ biến ở công trình. Các ngôi đền thường có một cửa còn ở ba phía còn lại của đền cũng có cửa nhưng chỉ là giả, để tạo cảm giác đối xứng cho ngôi đền. Công trình có tiếng nhất ở đây là ngôi đền Bayon với 200 gương mặt của thần Avalokitesvara (một dạng của Quan Âm Bồ Tát).
Chiêm ngưỡng những công trình này, ta không thể không khâm phục sức mạnh phi thường và bàn tay tài ba của những người dân Khmer cổ đại. Kiến trúc của Campuchia cũng có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc của Thái Lan và người Chăm của Việt Nam.
Những ngày lễ chính
Người Campuchia cũng giống như các quốc gia khác đều sử dụng Tây lịch. Tuy nhiên, trừ một số ngày lễ của người Khmer, họ sử dụng lịch Campuchia như ngày lễ Tết, lễ nhập điền hay lễ cầu hôn. Lịch Khmer có thể sớm hay muộn hơn lịch Tây tùy vào thời điểm của năm. Sự giao thoa về văn hóa và dân cư khiến cho một số ngày lễ của Campuchia có thêm một số ngày lễ như Tết Việt Nam và Trung Quốc, tết Đoan Ngọ,...
- Ngày 1 tháng 1 hằng năm: Tết Tây.
- Ngày 7 tháng 1 hằng năm: Ngày giải phóng đất nước khỏi chế độ Khmer Đỏ.
- Ngày 15 tháng 1 (âm lịch) hằng năm: Ngày Māgha Pūjā (Lễ rằm tháng giêng).
- Ngày 8 tháng 3 hằng năm: Ngày Quốc tế Phụ nữ.
- Ngày 13–15 tháng 4 hằng năm: Ngày tết Chol Chnam Thmey của người Khmer.
- Ngày 13–15 tháng 5 hằng năm: Sinh nhật nhà vua Norodom Sihamoni.
- Ngày 15 tháng 4 (âm lịch) hằng năm: Lễ Phật Đản.
- Ngày 1 tháng 5 hằng năm: Ngày Quốc tế Lao động.
- Ngày 23 tháng 5 hằng năm: Ngày lễ cầu mùa Vương Cung.
- Ngày 18 tháng 6 hằng năm: Ngày sinh nhật Vương thái hậu Norodom Moninaeth.
- Ngày 24 tháng 9 hằng năm: Ngày Hiến pháp quốc gia.
- Ngày 28–30 tháng 9 hằng năm: Ngày Pchum Ben (lễ báo hiếu ông bà).
- Ngày 23 tháng 10 hằng năm: Ngày ký Hiệp định hòa bình Paris.
- Ngày 29 tháng 10 hằng năm: Ngày nhà vua đăng quang.
- Ngày 31 tháng 10 hằng năm: Ngày sinh nhật Thượng vương Norodom Sihanouk.
- Ngày 09 tháng 11 hằng năm: Ngày Quốc khánh.
- Ngày 11–13 tháng 11 hằng năm: Ngày lễ hội cúng trăng, đua thuyền (ghe Ngo).
- Ngày 10 tháng 12 hằng năm: Ngày Nhân quyền Quốc tế.