An Dương Vương

14/11/2025| Từ điển: Lịch sử Việt Nam | Tác giả: Nguyen Huu Toan

An Dương Vương (chữ Hán: 安陽王), tên thật là Thục Phán (蜀泮), là người sáng lập và duy nhất cai trị nước Âu Lạc. Là thủ lĩnh của các bộ lạc Âu Việt, ông đã đánh bại vị vua Hùng cuối cùng của nhà nước Văn Lang. An Dương Vương chạy trốn và tự sát sau chiến tranh với Nam Việt vào năm 179 TCN.

Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Những bộ sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục cho rằng thời gian ông làm vua Âu Lạc kéo dài 50 năm, từ 257 TCN đến 208 TCN. Các sử gia hiện đại căn cứ vào Sử ký Tư Mã Thiên là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại từ khoảng 208 TCN đến 179 TCN, tức là gần 30 năm.

Nguồn gốc

Vào thời kỳ Hồng Bàng cách đây 2.300 năm, ở vùng Bắc Bộ Việt Nam có các bộ tộc người Âu Việt sống xen kẽ với người Lạc Việt. Nhà nước Văn Lang do Hùng vương đứng đầu cai trị người Lạc Việt. Thục Phán là vua người Âu Việt, sau khi đánh bại quân nhà Tần, ông thống nhất hai tộc Âu Việt và Lạc Việt vào chung một triều đình. Ông đổi quốc hiệu thành Âu Lạc, xưng là An Dương Vương, đóng đô tại Phong Khê (nay là thành Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội). Có ca dao:

Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục vương
Cổ Loa thành ốc khác thường
Trải bao năm tháng dấu thành còn đây

Nghi vấn

Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương hay họ Thục. Cựu Đường thư dẫn Nam Việt chí (viết thời Lưu Tống) cũng chỉ ghi "vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi, nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ", vua Thục ở đây không rõ là tên họ hay là tên miền đất cai trị.

Một số người còn đặt ra giả thuyết rằng An Dương Vương là dòng dõi vương tộc nước Thục cổ (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên), sau khi bị nước Tần xâm chiếm thì tổ tiên của ông chạy xuống phía Nam lập quốc. Tuy nhiên, đây chỉ là giả thuyết mang tính suy diễn vô căn cứ, không được hỗ trợ bởi bất kỳ sử liệu hoặc chứng cứ khảo cổ nào. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục đã chỉ ra điểm vô lý của giả thuyết này: "Nước Thục từ năm thứ 5 đời Chu Thận Tịnh Vương (316 TCN) đã bị nhà Tần diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang, còn có đất Kiền Vi, đất Dạ Lang, đất Cùng, đất Tác, và đất Nhiễm Mang cách hàng 2 - 3 ngàn dặm, có lẽ nào người Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang?"

Lập quốc

Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê chép:

Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái gọi là Mỵ Nương, nhan sắc xinh đẹp. Thục vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng: Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi. Thục vương vì chuyện ấy để bụng oán giận.

Trước kia vua nhiều lần đem quân đánh Hùng vương, nhưng Hùng vương binh hùng tướng mạnh, vua bị thua mãi. Hùng vương bảo vua rằng: Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư? Rồi Hùng vương bỏ không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi, hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính quay giáo đầu hàng Thục vương.

Tượng điêu khắc An Dương Vương giương nỏ thần ở Bảo tàng Mỹ thuật Tp.HCM

Sử ký sách ẩn [zh] do Tư Mã Trinh thời Đường biên tập, dẫn Quảng Châu ký chép:

Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc vương, Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc hầu, tự xưng là An Dương vương, trị ở huyện Phong Khê.

Cựu Đường thư do Lưu Hú soạn thời Hậu Tấn dẫn Nam Việt chí chép:

"Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng vương, phụ tá là Hùng hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc".

Tục truyền rằng khi lên ngôi, Thục Phán mới 22 tuổi và làm vua được 50 năm. Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng ông làm vua từ năm 257 tới 208 TCN. Nhưng theo đối chiếu với Sử ký Tư Mã Thiên thì niên đại chính xác có lẽ là khoảng năm 208 tới 179 TCN.

Thục Phán sau khi lấy được Văn Lang nhanh chóng ổn định chính quyền, những tù trưởng thuộc Văn Lang cũ vẫn giữ nguyên chức vụ, ông lấy hiệu là An Dương Vương, đổi tên nước thành Âu Lạc, bộ máy nhà nước thời Âu Lạc không có nhiều thay đổi so với bộ máy nhà nước thời Văn Lang. Đứng đầu trong bộ máy hành chính ở trung ương vẫn là Vua và Lạc hầu - Lạc tướng. Đứng đầu các bộ vẫn là Lạc tướng. Đứng đầu các chiềng, chạ vẫn là Bồ chính. Tuy nhiên, ở thời An Dương Vương quyền hành của nhà nước cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc cai trị đất nước.

Đang tải bình luận...

Đang gửi bình luận...

Chia sẻ ý kiến của bạn

Tham Gia Cộng Đồng

Khám phá và đóng góp hơn 1,200 thuật ngữ35 từ điển. Học hỏi, chia sẻ và phát triển cùng chúng tôi.

Đăng Ký Miễn Phí
Dicthub – Tra cứu, quản lý và chia sẻ thuật ngữ chuyên ngành dễ dàng